Theo một số ra năm 1995 của Tạp chí Hiệp hội Y khoa Mỹ, mỗi năm có hơn 1 triệu người bị thương trong bệnh viện và 180.000 người chết vì những vết thương đó. Các bệnh do thuốc kê đơn gây ra ước tính tiêu tốn hơn 136 tỷ đô la mỗi năm. Một nghiên cứu năm 1981 được công bố trên Tạp chí Y học New England đã kết luận rằng ít nhất một phần ba số bệnh nhân trong bệnh viện phải chịu một số ảnh hưởng xấu trong thời gian nằm viện và 9% bị thương nặng. Hãy xem bác sĩ Robert Mendelsohn, tác giả cuốn sách Lời thú tội của một kẻ dị giáo y học xuất bản năm 1979, đã viết: “Tôi tin rằng hơn 90% y học hiện đại có thể biến mất khỏi mặt đất – bác sĩ, bệnh viện, thuốc men và thiết bị – và ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta sẽ ngay lập tức và có lợi.”

Thông thường, người ta có thể nghĩ rằng nếu các bác sĩ đình công thì công chúng sẽ phải chịu những vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe. Tuy nhiên, Mendelsohn ghi nhận các trường hợp bác sĩ đình công và tỷ lệ tử vong giảm. Vào năm 1973, các bác sĩ ở Israel đã đình công trong một tháng và điều này xảy ra đồng thời với tỷ lệ tử vong giảm 55%. Năm 1976, một cuộc đình công kéo dài 52 ngày của bác sĩ ở Bógota, Colombia, xảy ra đồng thời với tỷ lệ tử vong giảm 35%. Cùng năm đó, tại Los Angeles, các bác sĩ đã tổ chức một cuộc điều trị chậm lại và tỷ lệ tử vong giảm 18%. Trong mỗi trường hợp, khi các hoạt động lao động của bác sĩ kết thúc, tỷ lệ tử vong tăng trở lại mức trước đó.

Trong những năm gần đây, một số tạp chí y khoa như Nhi khoa, Lancet, Đánh giá hàng năm về sức khỏe cộng đồng, và đặc biệt là Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ ngày 26 tháng 7 năm 2000, chứa đầy số liệu thống kê về thương tích và tử vong do thực hành y tế hiện đại gây ra. Ước tính hàng năm gần đây nhất về tử vong do bệnh viện gây ra là:

  • 106.000 ca tử vong do thuốc kê đơn “đúng cách”.
  • 80.000 ca tử vong do nhiễm trùng bệnh viện.
  • 12.000 ca tử vong do phẫu thuật không cần thiết
  • 7.000 ca tử vong do sai sót trong dùng thuốc
  • 20.000 ca tử vong do các lỗi khác.

Những con số này tổng cộng là 225.000 ca tử vong mỗi năm, nhưng tổng số thực tế còn lớn hơn nhiều. Những con số này không bao gồm các trường hợp tử vong không được báo cáo về mặt y tế. Tại sao phải chịu trách nhiệm về cái chết nếu có thể đưa ra một lời giải thích hợp lý khác? Ngay cả ở những bệnh viện tốt, chỉ có một “sự cố bất lợi” trong số bốn trường hợp được báo cáo; một số nghiên cứu đã đặt báo cáo ở mức thấp nhất là một trên hai mươi. Tử vong do thuốc gây ra ở các cơ sở ngoại trú đã được ước tính là thêm 200.000 mỗi năm. Một lần nữa, con số này là bảo thủ. Tuy nhiên, có lẽ một trong những vấn đề lớn nhất là tia X.

Mối đe dọa của tia X

Một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sức khỏe của chúng ta có thể do một loại xét nghiệm y tế gây ra: tia X y tế và nha khoa. Không có mức bức xạ an toàn; bất kỳ lượng bức xạ nào cũng có thể khiến các tế bào của chúng ta hoạt động sai chức năng. Mức độ bức xạ từ tia X y tế và nha khoa (mặc dù được cho là nằm trong “giới hạn an toàn”) góp phần gây ra bệnh ung thư và bệnh tim mạch vành. Bằng chứng được công bố vào năm 1999 bởi John Gofman, một bác sĩ y khoa và có bằng tiến sĩ, nhà vật lý hạt nhân, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về thiệt hại do phóng xạ. Cuốn sách của tiến sĩ Gofman, Bức xạ từ các thủ tục y tế trong cơ chế bệnh sinh của bệnh ung thư và bệnh tim thiếu máu cục bộ, trình bày một lập luận thuyết phục để xem xét lại cách chúng ta hiểu về bệnh tật và tỷ lệ tử vong trong xã hội của chúng ta và trách nhiệm của y học hiện đại đối với chúng.

Bằng chứng của Gofman cho thấy rằng tia X y tế là một đồng yếu tố cần thiết, có nghĩa là trong khi các yếu tố khác có liên quan, tia X là cần thiết cho cả bệnh ung thư và bệnh tim phát triển. Tiến sĩ Gofman phát hiện ra rằng hơn 60% ca tử vong do ung thư và hơn 70% ca tử vong do bệnh tim mạch vành đều liên quan đến tia X. Để trích dẫn một ví dụ, Gofman phát hiện ra rằng vào năm 1990, tia X y tế là một yếu tố nguyên nhân cần thiết trong 83% của tất cả các bệnh ung thư vú. Nói cách khác, chụp X-quang ngực và chụp quang tuyến vú là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư vú.

May mắn thay, chụp ảnh nhiệt là một giải pháp thay thế an toàn và hiệu quả cho chụp quang tuyến vú. Phép ghi nhiệt độ đo nhiệt độ và dường như là một cách chính xác hơn nhiều để phát hiện khối u ở giai đoạn sớm hơn nhiều. Một khối u ung thư, khi nó bắt đầu nhận được nguồn cung cấp máu của chính nó, sẽ ấm hơn các mô xung quanh và có thể được phân biệt khi đo nhiệt độ của vú.

Y học hiện đại chịu trách nhiệm cho khoảng 90% sự phơi nhiễm của chúng ta với bức xạ nhân tạo, và khoảng 90% sự phơi nhiễm đó là kết quả của tia X chẩn đoán. Mức bức xạ thấp hơn mức tạo ra bởi mười tia X-quang phim cánh cắn có thể gây ra ung thư tuyến giáp, và không có gì đáng ngạc nhiên, một đại dịch ung thư tuyến giáp hiện đang được tìm thấy ở những người đã chụp X quang ngực, cổ và đầu từ nhiều thập kỷ trước.

Tuy nhiên, tia X được thực hiện với tần suất đáng báo động. Gofman ước tính rằng hơn một nửa là không cần thiết. Các nhà nghiên cứu khác đã đặt tỷ lệ phần trăm tia X “ít hoặc không có giá trị y tế” lên tới 90%. Ngay cả tia X ở mức độ thấp cũng có khả năng gây tổn thương di truyền, gây nguy hiểm cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Ví dụ, người ta đã tìm thấy mối tương quan giữa số lần chụp X-quang bụng mà một người mẹ đã nhận được trong đời và việc sinh ra một đứa trẻ mắc hội chứng Down.

Công chúng lo lắng về bức xạ từ các nhà máy điện hạt nhân, nhưng một mối nguy hiểm phổ biến hơn là bức xạ từ tia X y tế. Hãy từ chối tia X trừ khi chúng thực sự cần thiết, điều này không thường xuyên. Trẻ em đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi bức xạ và cần được cha mẹ bảo vệ.

Áp dụng dữ liệu của tiến sĩ Gofman về tia X y học đối với 60% ca tử vong do ung thư và 70% ca tử vong do bệnh tim thiếu máu cục bộ ở đất nước này, tôi tính toán rằng tia X gây ra khoảng 650.000 ca tử vong mỗi năm. Kết hợp những ca tử vong này với số ca tử vong do thuốc gây ra đã được thừa nhận (250.000 bệnh nhân nội trú và 200.000 bệnh nhân ngoại trú mỗi năm) cho thấy ước tính có hơn 1 triệu ca tử vong mỗi năm do thực hành y học hiện đại gây ra. Con số này chiếm khoảng một nửa số ca tử vong ở Mỹ, khiến y học hiện đại trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu.

(Nguồn: Lược dịch từ cuốn sách “Never Be Sick Again” của tác giả Raymond Francis)