Giải Nobel Hóa học năm 1946 được chia, một nửa được trao cho James Batcheller Sumner “vì khám phá ra rằng enzyme có thể được kết tinh”, nửa còn lại thuộc về John Howard Northrop và Wendell Meredith Stanley “vì họ đã điều chế enzyme và protein virus trong một phương pháp thể tinh khiết” https://www.nobelprize.org/prizes/chemistry/1946/summary/

Giải Nobel Sinh lý học và Y học năm 1978 được trao chung cho Werner Arber, Daniel Nathans và Hamilton O. Smith “vì đã phát hiện ra các enzyme giới hạn và ứng dụng của chúng vào các vấn đề di truyền phân tử” https://www.nobelprize.org/prizes/medicine/1978/summary/

Giải Nobel Hóa học 1997 được chia, một nửa dành cho Paul D. Boyer và John E. Walker “vì đã làm sáng tỏ cơ chế enzyme cơ bản tổng hợp adenosine triphosphate (ATP)” và nửa còn lại dành cho Jens C. Skou ” cho phát hiện đầu tiên về enzyme vận chuyển ion, Na +, K + -ATPase.” https://www.nobelprize.org/prizes/chemistry/1997/summary/

Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học 2009 được trao chung cho Elizabeth H. Blackburn, Carol W. Greider và Jack W. Szostak “vì đã khám phá ra cách các nhiễm sắc thể được bảo vệ bởi telomere và enzyme telomerase.”
https://www.nobelprize.org/prizes/medicine/2009/prize-announcement/

Giải Nobel Hóa học 2018 đã được chia, một nửa được trao cho Frances H. Arnold “vì sự tiến hóa có định hướng của các enzym”, nửa còn lại được trao cho George P. Smith và Sir Gregory P. Winter “cho phage hiển thị peptit và kháng thể. . “
https://www.nobelprize.org/prizes/chemistry/2018/popular-information/